Tạo nhịp tim
TS. Phạm Nguyên Sơn

Tạo nhịp tim là dùng một thiết bị điện tử (máy tạo nhịp) phát xung điện 1 chiều có chu kỳ, thông qua dây điện cực kích thích cơ tim co bóp theo chu kỳ đó. Có hai loại tạo nhịp là tạo nhịp tim tạm thời và tạo nhịp tim vĩnh viễn. Tạo nhịp tim tạm thời được sử dụng để điều trị cấp cứu và chẩn đoán các rối loạn nhịp. Tạo nhịp tim vĩnh viễn được sử dụng để điều trị các rối loạn nhịp chậm, gần đây người ta đã bổ xung thêm một số chỉ định mới của tạo nhịp vĩnh viễn được như trong điều trị suy tim, trong bệnh cơ tim phì đại có nghẽn đường ra thất trái, trong một số rối loạn nhịp nhanh ...
I. SƠ LƯỢC VỀ LỊCH SỬ CỦA TẠO NHỊP TIM (PACEMAKER)
          Năm 1952, Paul Zoll lần đầu tiên sử dụng thành công các xung điện thông qua hai điện cực gắn vào hai kim được cắm vào ngực cho hai bệnh nhân bị ngừng tim. Từ đó, phương pháp kích thích tim tạm thời để cấp cứu đã được áp dụng rộng rãi trong lâm sàng đặc biệt là trong hồi sức, cấp cứu tim mạch. Cho đến nay, có nhiều cách tạo nhịp tạm thời được áp dụng như kích thích tim qua thành ngực, kích thích tim qua thực quản, kích thích thượng tâm mạc và kích thích nội tâm mạc buồng tim, tuy nhiên kích thích nội mạc buồng tim qua đường tĩnh mạch được áp dụng nhiều hơn cả.
Máy tạo nhịp cấy vào trong cơ thể là một phát minh của Winson Greatbatch ở Hoa kỳ năm 1956. Đến tháng 10 năm 1958, Ake Sening (Thuỵ điển) đã tiến hành cấy máy tạo nhịp lần đầu tiên trên thế giới, còn tại Hoa kỳ, trường hợp cấy máy tạo nhịp tim đầu tiên do Chardack thực hiện thành công năm 1959. Với những hiểu biết mới về điện sinh lý học, những tiến bộ vượt bậc về kỹ thuật điện tử – y sinh, từ những thế hệ máy tao nhịp ban đầu hết sức đơn giản (V00), sau hơn 50 năm phát triển, hiện nay người ta đã chế tạo ra nhiều thế hệ máy hiện đại như DDDR, máy tạo nhịp 3 buồng tim để trị suy tim (tạo nhịp đồng bộ 2 thất - CRT) , máy phá rung tự động cấy trong cơ thể (ICD) với nhiều phương thức tạo nhịp đáp ứng được yêu cầu của lâm sàng, kích thước của máy cũng giảm dần từ vài trăm gam xuống còn khoảng 20 – 30 g và đời sống của máy tạo nhịp tim cũng kéo dài hơn (8 – 10 năm). Hiện nay, trên thế giới mỗi năm số lượng bệnh nhân cấy máy tạo nhịp tăng dầnTại Hoa kỳ, năm 1993 có khoảng 1 triệu bệnh nhân được cấy máy tạo nhịp vĩnh viễn, và hàng năm tỷ lệ bệnh nhân được cấy máy mới là 426/1triệu dân. Tỷ lệ này tăng theo sự gia tăng của tuổi thọ, cũng tại Hoa kỳ số bệnh nhân >65 tuổi cấy máy tạo nhịp năm 1990 là 87100 (tỷ lệ 325,4/100000 dân trên 65 tuổi), đến năm 2000 số bệnh nhân đã tăng lên 138100 (đạt tỷ lệ 504,4/100000 dân trên 65 tuổi).
Tại Việt nam, trường hợp cấy máy tạo nhịp đầu tiên được tiến hành năm 1973, tuy nhiên do điều kiện kinh tế, mãi đến những năm 1990 ký thuật cấy máy tạo nhịp mới phát triển mạnh mẽ. Hiện nay, các trung tâm có khả năng cấy máy và lập trình cho máy tạo nhịp tim đã tăng lên đáng kể như Viện tim mạch quốc gia Việt nam, Bệnh viện TWQĐ 108 (ở miền Bắc), Bệnh viện TW Huế (ở miền Trung) Bệnh viện Chợ Rẫy, Bệnh viện 115, Bệnh viện Thống nhất ... (ở miền Nam) với số lượng bệnh nhân được cấy máy tăng lên từng năm. Về kỹ thuật, hầu hết các bệnh viện đã làm chủ được kỹ thuật cấy máy 1 và 2 buồng, một số bệnh viện đã bước đầu triển khai cấy máy 3 buồng điều trị suy tim và máy phá rung tự động (ICD).
II. TẠO NHỊP TIM TẠM THỜI TRONG CẤP CỨU TIM MẠCH
          3.1. Sơ bộ về tạo nhịp tim tạm thời
          Hệ thống tạo nhịp tim gồm có 2 phần chính: máy tạo nhịp (Pacemaker) và dây điện cực (Electrode).
- Máy tạo nhịp (Pacemaker):
          Máy tạo nhịp là bộ phận chính của tạo nhịp tim tạm thời. Máy tạo nhịp tạm thời cũng gồm các bộ phận như tương tự như máy tạo nhịp vĩnh viễn nhưng pin của máy tạo nhịp tạm thời thường sử dụng pin thông thường loại 9V hoặc sử dụng dòng điện dân dụng (110V hoặc 220V). Những máy tạo nhịp tạm thời thường có chương trình tương đối đơn giản như điều chỉnh cường độ và điện áp ra, tần số kích thích, nhận cảm (sensitivity) với nhịp nội tại; một số máy có chương trình tạo nhịp 1 buồng hoặc 2 buồng. Những máy tạo nhịp tạm thời hiện đại gần đây cho phép điều chỉnh được độ rộng xung kích thích, thời gian trơ của nhĩ hoặc thất và thời gian trễ của nhĩ – thất (A- V delay) và có cấu trúc tương đối gọn nhẹ.    
- Dây điện cực (Electrode) và các phương pháp kích thích tim tạm thời:
          Dây điện cực tạo nhịp tạm thời có cấu trúc tuỳ thuộc vào kiểu kích thích qua qua thành ngực, kích thích tim qua thực quản, kích thích thượng tâm mạc hay kích thích nội tâm mạc buồng tim.
Với kích thích nội tâm mạc (điện cực tĩnh mạch) thì dây điện cực được có phần dây dẫn điện làm bằng hợp kim và được bọc ngoài bằng polyurethane hoặc silicon, gốc dây điện cực có 2 đầu nối với điện cực âm và dương của máy tạo nhịp ngoài, đầu dây điện cực có 2 điện cực để truyền xung động điện tới tổ chức cơ tim, đầu dây điện cực tạm thời không có các dụng cụ cố định điện cực như trong tạo nhịp vĩnh viễn.
Trong trường hợp kích thích qua đường thực quản, dây điện cực có cấu tạo gần giống với điện cực tĩnh mạch nhưng trên đó có thể có tới 6 điện cực và có tới 6 đầu nối với điện tim và máy tạo nhịp ngoài.
Khi tạo nhịp thượng tâm mạc, đầu dây điện cực được khâu đính vào lá tạng của màng ngoài tim (thường sử dụng khi tạo nhịp tạm thời trong phẫu thuật tim).
Tạo nhịp qua da hiện nay ít được sử dụng, đầu của điện cực trong trường hợp này chính là các bản điện cực dán (patch) của các máy phá rung kết hợp kích thích tim dùng trong cấp cứu tim mạch, kích thích qua da đòi hỏi năng lượng, biên độ, cường độ và độ rộng của xung kích thích lớn.
Tạo nhịp qua thành ngực sử dụng các kim điện cực cắm trực tiếp qua thành ngực thẳng vào cơ tim để kích thích tim. Phương pháp này đã được áp dụng từ hơn 30 năm nay, mặc dù kỹ thuật hết sức nhanh chóng và đơn giản trong cấp cứu nhưng vẫn còn nhiều tranh cãi và hiện nay ít được ứng dụng trong lâm sàng.
Hiện nay, phần lớn tạo nhịp tạm thời trong cấp cứu tim mạch đều sử dụng phương pháp kích thích qua đường tĩnh mạch với đường vào chủ yếu là tĩnh mạch đùi hoặc tĩnh mạch dưới đòn. Tạo nhịp thượng tâm mạc chủ yếu được sử dụng trong phẫu thuật tim. Các phương pháp khác ít được sử dụng trên lâm sàng.     
3.2. Chỉ định của tạo nhịp tim tạm thời
          Chỉ định tạo nhịp tạm thời được chia là 2 loại là cấp cứu và chỉ định chọn lọc. Hiện nay, vẫn chưa có sự thống nhất tuyệt đối trong chỉ định tạo nhịp tạm thời do chưa có những thử nghiệm lâm sàng lớn, tuy nhiên các người ta cũng đã đưa ra một số chỉ định như sau:
          - Chỉ định trong cấp cứu tim mạch: Tạo nhịp tạm thời được chỉ định cho tất cả các tình trạng rối loạn huyết động cấp tính do căn nguyên nhịp chậm và/hoặc các tình trạng vô tâm thu.
+ Nhồi máu cơ tim cấp có thêm:
. Nghẽn nhĩ – thất hoàn toàn ở bệnh nhân có NMCT thành trước; ở bệnh nhân có NMCT thành sau không đáp ứng với thuốc Atropine; ở bệnh nhân có tụt huyết áp.
. Ngừng xoang, vô tâm thu.
. Nhịp chậm có triệu chứng: Nhịp chậm xoang có tụt HA, nghẽn nhĩ – thất độ 2 kiểu Mobitz I có tụt HA và không đáp ứng với thuốc Atropine.
. Nghẽn hai nhánh (nghẽn luân phiên hai nhánh hoặc nghẽn nhánh phải kết hợp với nghẽn phân nhánh trái trước trên hoặc nghẽn phân nhánh trái sau dưới).
. Xuất hiện nghẽn mới hai nhánh và nghẽn nhĩ – thất độ 1.
. Nghẽn nhĩ – thất độ 2 kiểu Mobitz II.
+ Nhịp chậm: 
                   . Vô tâm thu.
                   . Nghẽn nhĩ – thất độ 2 hoặc 3 mà bệnh nhân có rối loạn huyết động hoặc ngất khi nghỉ hoặc có phức bộ QRS rộng và tần số tim <50 lần/phút.
                   . Rối loạn nhịp chậm trong hội chứng nút xoang bệnh lý mà tần số tim dưới 40 lần/phút và điều trị bằng thuốc nâng tần số tim không có hiệu quả.
. Rối loạn nhịp nhanh thứ phát sau một nhịp chậm (thí dụ xoắn đỉnh hậu quả của nhịp tim quá chậm). 
- Chỉ định chọn lọc:Tạo nhịp tạm thời được chỉ định một cách chọn lọc cho những trường hợp bệnh nhân có nguy cơ có rối loạn nhịp chậm nặng trong khi phẫu thuật hoặc phải chịu các thủ thuật can thiệp nhất là phẫu thuật hoặc can thiệp tim mạch.
+ Dự phòng trong các trường hợp phẫu thuật hoặc thủ thuật can thiệp có khả năng gây ra các rối loạn nhịp chậm nặng.
+ Trong phẫu thuật ở những bệnh nhân có:
. Nghẽn nhĩ – thất độ 2 hoặc độ 3.
. Nghẽn nhĩ – thất từng cơn.
. Nghẽn nhĩ – thất độ 1 kết hợp nghẽn 2 nhánh bó His.
. Nghẽn nhĩ – thất độ 1 kết hợp nghẽn  nhánh trái.
+ Trong phẫu thuật tim:
. Phẫu thuật van động mạch chủ, van ba lá.
. Phẫu thuật đóng lỗ thông liên thất, thông liên nhĩ lỗ thứ nhất.
+ Trong can thiệp tim mạch:
. Trong thông tim, sinh thiết cơ tim ở bệnh nhân có nghẽn nhánh trái hoặc can thiệp động mạch vành nhất là động mạch vành phải.
. Shock điện phá rung ở bệnh nhân có hội chứng nút xoang bệnh lý  hoặc kích thích vượt tần số điều trị cơn nhịp nhanh thất hoặc trên thất.
3.3. Biến chứng của tạo nhịp tim tạm thời
          Biến chứng của tạo nhịp tạm thời có liên quan đến việc chọc tĩnh mạch, tác động cơ học và điện học của điện cực đối với tim, nhiễm trùng và huyết khối tắc mạch ... Biến chứng trong tạo nhịp tạm thời chiếm khoảng 14 – 20% tổng số bệnh nhân tuỳ theo từng trung tâm và các triệu chứng chính thường gặp là tiếng cọ màng ngoài tim, rối loạn nhịp thất và tình trạng nhiễm trùng.
- Các biến chứng liên quan đến việc chọc tĩnh mạch: các biến chứng có thể gặp khi chọc tĩnh mạch dưới đòn là tràn khí màng phổi và tràn máu màng phổi. các biến chứng này thường gặp ở những trung tâm và ở những thủ thuật viên ít kinh nghiệm. Do vị trí giải phẫu của mạch máu dưới đòn khá thay đổi nên khó có thể khẳng định có thể tránh hoàn toàn được biến chứng này. Biện pháp tốt nhất là nên chọn đường vào là tĩnh mạch khác để chọc, thí dụ như tĩnh mạch bẹn .... Một biến chứng khác có thể gặp khi chọc tĩnh mạch là chọc nhầm vào động mạch.
- Các biến chứng liên quan đến tác động cơ học của điện cực: ở một số bệnh nhân đặc biệt là bệnh nhân NMCT cấp, việc đặt điện cực vào thất phải có thể gây ra các ngoại tâm thu thất và đôi khi gây ra rối loạn nhịp thất kéo dài. Biến chứng này có thể khắc phục được bằng cách thay đổi vị trí điện cực, tuy nhiên nếu bệnh nhân phụ thuộc  hoàn toàn vào tạo nhịp tạm thời thì việc thay đổi vị trí điện cực sẽ có nhiều khó khăn và nguy hiểm cho bệnh nhân.
Điện cực dùng trong tạo nhịp tạm thời thường nhỏ (5F hoặc 6F) và cứng nên đôi khi có thể chọc thủng thành thất phải là cho ngưỡng kích thích tăng lên có thể gây tràn máu màng ngoài tim và ép tim cấp. Trong trường hợp này, có thể chỉ cần rút điện cực ra khỏi vị trí đã đặt và đặt lại điện cực và theo dõi dịch màng ngoài tim bằng siêu âm tim. Một số trường hợp nặng hơn, có tràn máu màng ngoài tim nhiều hoặc có ép tim thì cần phải điều trị chọc hút hoặc dẫn lưu màng ngoài tim cấp cứu.
- Các biến chứng liên quan đến tác động điện học của điện cực: thông thường, ngưỡng kích thích của tạo nhịp tạm thời thay đổi tuỳ theo bệnh lý của bệnh nhân và những thuốc mà bệnh nhân đang sử dụng. Người ta thường kiểm tra ngưỡng kích thích hàng ngày sau tạo nhịp tạm thời, biên độ kích thích thường gấp đôi ngưỡng kích thích. Khi biên độ kích thích phải tăng lên trên 5V thì cần phải kiểm tra lại vị trí đặt điện cực hoặc đặt lại điện cực. Khi kích thích bị mất dẫn đột ngột, cần phải kiểm tra đầu nối với máy tạo nhịp tạm thời, tình trạng dây điện cực, pin của máy tạo nhịp còn hay hết và kiểm tra xem có hiện tượng tăng nhận cảm hay không. Nếu trên điện tim đồ vẫn quan sát thấy gai kích thích nhưng không dẫn nhịp thì có hể tăng biên độ kích thích, thay đổi vị trí đầu điện cực hoặc thay điện cực khác. Theo một nghiên cứu đã công bố, có khoảng 37% bệnh nhân bị rối loạn nhận cảm và rối loạn kích thích sau tạo nhịp tạm thời qua đường tĩnh mạch 48 giờ.   
- Các biến chứng liên quan đến nhiễm trùng và huyết khối tắc mạch: nếu vị trí chọc tĩnh mạch được vô trùng tốt thì việc sử dụng kháng sinh là không cần thiết, tuy nhiên nếu có bất cứ dấu hiệu nhiễm trùng nào đều phải hay điện cực. Với những bệnh nhân có tạo nhịp tạm thời trên 7 ngày hoặc sử dụng đường vào là tĩnh mạch bẹn thì việc sử dụng kháng sinh là chỉ định bắt buộc. Đa số nhiễm trùng liên quan đến tạo nhịp tạm thời là do tụ cầu da (Staphylococcus epidermidis) hoặc trực khuẩn coli gây ra nhất là khi chọc tĩnh mạch đùi vì vậy không nên sử dụng đường tĩnh mạch đùi khi bệnh nhân có suy giảm miễn dịch.                                                       
Huyết khối tắc mạch thường gặp ở tĩnh mạch đùi với các triệu chứng của huyết khối tĩnh mạch đùi sâu. Tạo nhịp tạm thời qua đường tĩnh mạch đùi khá là đơn giản và thuận tiện, nhưng nên tránh sử dụng khi phải tạo nhịp kéo dài hoặc trên bệnh nhân có nhiều nguy cơ huyết khối tắc mạch.
III. TẠO NHỊP TIM VĨNH VIỄN TRONG ĐIỀU TRỊ RỐI LOẠN NHỊP VÀ DẪN TRUYỀNTIM
3.1. Những khái niệm cơ bản về tạo nhịp tim vĩnh viễn
          3.1.1. Sơ bộ hệ thống tạo nhịp tim
          Hệ thống tạo nhịp tim gồm có 2 phần chính: máy tạo nhịp (Pacemaker) và dây điện cực (Electrode), ngoài ra còn có thêm máy lập trình (Programmer).
- Máy tạo nhịp (Pacemaker):
          Máy tạo nhịp là bộ phận chính của tạo nhịp tim, máy bao gồm:
- Pin: chiếm 1/2 đến 2/3 thể tích của máy tạo nhịp, hiện nay pin của máy tạo nhịp thông thường là pin Lithium – Iodine, có khả năng đảm bảo năng lượng cho máy hoạt động trong khoảng thời gian từ 8 – 10 năm.
- Bộ vi sử lý (microprocessor), bộ nhớ và mạch điện tử (hybrid circuits) có khả năng lưu trữ chương trình, đảm bảo các chức năng hoạt động của máy tạo nhịp.
- Đầu nối với điện cực: làm bằng nhựa Epoxy, có các lỗ cắm để gắn các dây điện cực. Mỗi lỗ cắm có thể nhận một hay hai cực. Thông thường, mỗi lỗ cắm đều có một vít để vặn chặt đầu điện cực.
Tất cả pin, bộ vi sử lý và mạch điện tử được bao bọc bởi vỏ máy làm bằng hợp kim có tính chất sinh hợp (biocompatible). Vỏ máy còn làm chức năng của cực dương khi kích thích đơn cực (Unipolar).
          - Dây điện cực (Electrode):
          Dây điện cực là thành phần rất quan trọng của tạo nhịp tim. Dây điện cực gồm 3 phần: gốc dây điện cực gắn với máy tạo nhịp, thân dây điện cực và phần đầu dây điện cực gắn với nội tâm mạc. Trong tạo nhịp vĩnh viễn người ta thường sử dụng dây điện cực tĩnh mạch, tuy nhiên cũng có thể sử dụng dây điện cực thượng tâm mạc trong tạo nhịp vĩnh viễn cho trẻ em.
          + Gốc dây điện cực: có phích cắm vào máy tạo nhịp, ngày nay tất cả các dây điện cực đều có phích cắm theo tiêu chuẩn IS-1 với đường kính phích cắm 3,2 mm. Đặc điểm này cần chú ý khi chúng ta thay máy tạo nhịp, với những máy đã được cấy từ nhiều năm trước, đầu phích cắm của điện cực có thể có kích thước khác với tiêu chuẩn IS-1 do đó phải có đầu nối (Adaptor) để chuyển đổi đầu dây cho thích hợp. Dây điện cực có thể có 1 hay 2 dây dẫn điện, dây dẫn điện ở đầu phích rỗng để có thể luồn dây dẫn (guidewire) vào để có thể lái đầu điện cực vào mỏm tim hoặc vào tiểu nhĩ khi cấy máy. Đầu dây điện cực có 1 dây dẫn điện (đơn cực) thường có chức năng là điện cực âm khi kích thích, khi dây điện cực có 2 dây dẫn điện (hai cực) thì đầu dây là điện cực âm còn một vòng kim loại ở gần đàu dây là điện cực dương.
          + Thân dây điện cực: thân dây điện cực được làm bằng silicon hay polyurethane. Dây dẫn điện được làm bằng hợp kim Nickel. Trong trường hợp dây hai cực thì có hai dây dẫn điện đồng tâm, xung quanh hai dây này có chất silicon hay polyurethane làm chất cách điện. Thân dây điện cực cũng rỗng ở giữa để có thể luồn dây dẫn (guidewire) vào để có thể lái đầu điện cực.
          + Đầu dây điện cực: bao gồm đầu điện cực và phương tiện cố định đầu điện cực.
          . Phương tiện cố định đầu điện cực: vì đầu điện cực cần phải bám chắc vào nội tâm mạc để dẫn truyền điện cho cơ tim nên cần phải có phương tiện cố định điện cực. Có 2 loại cố định điện cực: cố định thụ động (passive fixation) và cố định chủ động(active fixation). Cố định thụ động là sử dụng có đầu móc gắn vào các cột cơ trong buồng tim, theo thời gian các mô xung quanh đầu điện cực sẽ xơ hoá và cố định chặt đầu điện cực. Cố định chủ động là sử dụng đầu điện cực có gắn đầu vít xoắn bắt vít chặt vào nội tâm mạc, loại cố định chủ động có lợi vì có thể cố định đầu điện cực vào bất kỳ vị trí nào của buồng tim, ít có hiện tượng tuột điện cực sau cấy máy và có thể tháo điện cực ra khi cần nhưng cũng có những yếu điểm là làm tổn thương nội mạc tim nên ngưỡng kích thích có phần cao hơn điện cực cố định thụ động.
          . Đầu điện cực: đầu điện cực được làm bằng hợp kim, tiếp xúc với thành tim và đóng vai trò điện cực âm khi kích thích. Khi kích thích nội tâm mạc, tại vị trí đầu điện cực tiếp xúc với nội mạc cơ tim có hiện tượng viêm và lâu ngày xung quanh đầu điện cực sẽ bị xơ hoá làm cho ngưỡng kích thích tăng lên. Một số biện pháp có thể hạn chế được hiện tượng này là sử dụng đầu điện cực có tẩm steroid để chống viêm, thiết kế đầu điện cực bằng hợp kim có tính chất sinh hợp (biocompatible) và có cấu tạo đặc biệt (phủ chất Irridium dưới dạng những hạt nhỏ để tăng tiếp xúc).
          - Máy lập chương trình (Programmer):dùng để kiểm tra các thông số hoạt động của máy tạo nhịp như ngưỡng kích thích, ngưỡng nhận cảm, điện trở của máy tạo nhịp, điện trở của điện cực, biên độ kích thích, độ rộng của xung kích thích, sự tiêu hao của pin ... và lập chương trình hoạt động cho máy tạo nhịp sao cho hợp lý và tiết kiệm năng lượng. Máy lập chương trình thực chất là một máy tính có cài sẵn chương trình phần mềm riêng biệt được nối với một đầu lập chương trình và một máy in. Đầu lập chương trình có gắn nam châm và các mạch điện tử để liên lạc với máy tạo nhịp qua sóng điện từ hay từ trường.   
          3.1.2. Ký hiệu của máy tạo nhịp tim
          Máy tạo nhịp hiện nay tương đối đa dạng về chức năng và chương trình, để nhận biết các loại máy này, năm 1974 Hội tạo nhịp và điện sinh lý học Bắc Mỹ và nhóm điện sinh lý học Anh (NASPE/BPEG) đã đưa ra bảng ký hiệu của máy tạo nhịp gồm 3 chữ cái, sau đó đến năm 2002 đã điều chỉnh lại thành 5 chữ cái. Trong bảng ký hiệu này, chữ cái đầu tiên chỉ vị trí buồng tim được tạo nhịp, chữ cái thứ 2 chỉ vị trí buồng tim nhận cảm, chữ cái thứ 3 chỉ dạng đáp ứng với nhận cảm, chữ cái thứ 4  để chỉ khả năng lập trình và chữ cái thứ 5 chỉ chức năng chống nhịp nhanh.
Ký hiệu của máy tạo nhịp tim (NASPE/BPEG Generic code)
Chữ thứ nhất
Chữ thứ hai
Chữ thứ ba
Chữ thứ tư
Chữ thứ năm
Buồng tạo nhịp
Buồng nhận cảm
Dạng đáp ứng
Khả năng lập trình và điều biến tần số
Chức năng chống nhịp nhanh
O: không
A: nhĩ
V: thất
D: cả hai (A và        V)
S: đơn (A hoặc V)
O: không
A: nhĩ
V: thất
D: cả hai (A và V)
S: đơn (A hoặc V)
O: không
T: khởi kích
I: ức chế
D: cả hai (T và I)

O: không
P: có khả năng lập trình đơn giản
M: có khả năng lập trình đa chức năng
C: có khả năng kết nối từ xa
R: có khả năng điều biến tần số kích thích
O: không
P: bằng tạo nhịp
S: bằng shock điện
D: cả hai (P và S)


Thí dụ:
- Máy VVI: kích thích ở thất, nhận cảm ở thất và đáp ứng nhận cảm theo phương thức ức chế.
- Máy VVIR: kích thích ở thất, nhận cảm ở thất và đáp ứng nhận cảm theo phương thức ức chế và có đáp ứng tần số.
- Máy DDD: kích thích ở cả nhĩ và thất, nhận cảm ở cả nhĩ và thất và đáp ứng nhận cảm theo cả 2 phương thức ức chế và khởi kích.  
          3.1.3. Các phương thức tạo nhịp
          3.1.3.1. Tạo nhịp một buồng tim: là kích thích tại một buồng tim (nhĩ hoặc thất) với có hoặc không có nhận cảm.
          - Tạo nhịp thất với tần số cố định (VOO): máy tạo nhịp kích thích tâm thất với tấn số cố định và hoàn toàn độc lập với nhịp nội tại của tim. Hiện nay, phương thức kích thích này không còn được sử dụng vì dễ dễ kích thích vào thời kỳ dễ đả kích của sóng T của nhịp nội tại của bệnh nhân và gây cơn nhanh thất hoặc rung thất.
          - Tạo nhịp thất theo nhu cầu, dạng ức chế (VVI): máy tạo nhịp nhận cảm các hoạt động nội tại của thất và ức chế phát xung kích thích thất. Tạo nhịp kiểu VVI được sử dụng rộng rãi trong lâm sàng tạo nhịp tim để điều trị các rối loạn nhịp chậm. Tuy nhiên, kiểu tạo nhịp này có nhược điểm là làm mất đồng bộ nhĩ – thất, không tận dụng được nhịp xoang sinh lý của bệnh nhân, có thể gây hội chứng máy tạo nhịp (pacemaker syndrome) và lâu dài làm tăng nguy cơ rung nhĩ cho bệnh nhân.
          - Tạo nhịp nhĩ theo nhu cầu, dạng ức chế (AAI): máy tạo nhịp nhận cảm các hoạt động nội tại của nhĩ và ức chế phát xung kích thích nhĩ. Tạo nhịp kiểu VVI được sử dụng trong lâm sàng tạo nhịp tim để điều trị hội chứng nút xoang bệnh lý nhưng có dẫn truyền nhĩ - thất bình thường. Tuy nhiên, trước khi cấy máy tạo nhịp AAI phải kiểm tra dẫn truyền nhĩ – thất một cách chắc chắn.
          - Tạo nhịp thất theo tần số nhĩ (VDD): máy tạo nhịp nhận cảm ở nhĩ và thất. Khi có nhịp nội tại ở nhĩ, theo thời gian nhĩ – thất đã được lập trình, máy sẽ kích thích thất. Trong trường hợp không có nhịp nội tại ở nhĩ và ở thất, máy sẽ tự kích thích thất. 
          3.1.3.2. Tạo nhịp hai buồng tim (DDD):máy tạo nhịp có hai điện cực, một ở nhĩ và một ở thất. Kích thích và nhận cảm ở cả nhĩ và thất, đáp ứng với nhận cảm bằg cả ức chế và khởi kích. Tạo nhịp hai buồng tim là tạo nhịp đồng bộ nhĩ – thất. Máy tạo nhịp hai buồng có tác dụng tốt trong nghẽn nhĩ – thất hoàn toàn và hội chứng ức chế tim mạch qua trung gian thần kinh.
3.1.3.3. Tạo nhịp đáp ứng tần số: máy tạo nhịp có gắn bộ phận nhận cảm chuyên biệt để phát hiện các hoạt động thể lực của cơ thể, từ đó máy tạo nhịp phát ra xung động có tần số tương ứng với các hoạt động đó để kích thích tim đáp ứng nhu cầu của cơ thể. Đáp ứng tần số có thể áp dụng cho máy tạo nhịp một buồng (AAIR, VVIR) và hai buồng (DDDR). 
3.2. Chỉ định cấy máy tạo nhịp tim vĩnh viễn
          Chỉ định của cấy máy tạo nhịp vĩnh viễn đã được Hội tim mạch Hoa kỳ, Hội tạo nhịp và điện sinh lý học Bắc Mỹ (American College of Cardiology, American Heart Association, và North American Society for Pacing and Electrophysiology - ACC/AHA/NASPE) thống nhất đề ra năm 1998 và sau đó được cập nhất vào năm 2002. Các chỉ định này đã được hầu hết các nước áp dụng trong thực hành lâm sàng. Chỉ định cấy máy tạo nhịp theo ACC/AHA/NASPE – 2002 được chia là 3 loại:
          - Loại I: là những tình trạng bệnh lý cần thiết phải cấy máy tạo nhịp, chỉ định này đã được các bằng chứng và được các chuyên gia thống nhất là có đem lại tác dụng và hiệu quả tốt cho bệnh nhân. Đây được coi như chỉ định tuyệt đối.
          - Loại II: là những tình trạng bệnh lý mà việc cấy máy tạo nhịp vẫn thường được tiến hành cho bệnh nhân, tuy nhiên có những ý kiến và bằng chứng khác nhau về tác dụng và hiệu quả của việc điều trị.
          + Loại IIa: đa số các bằng chứng và ý kiến ủng hộ việc cấy máy tạo nhịp là cần thiết và có hiệu quả. Đây được coi như chỉ định tương đối.
          + Loại IIb: đa số các bằng chứng và ý kiến không cho rằng việc cấy máy tạo nhịp là cần thiết và có hiệu quả.
          - Loại III: là những tình trạng bệnh lý mà các bằng chứng và ý kiến cho rằng việc cấy máy tạo nhịp không có tác dụng và hiệu quả cho bệnh nhân, thậm chí trong một số trường hợp còn gây tác hại cho bệnh nhân. Đây được coi như chống chỉ định.
3.2.1. Nghẽn nhĩ – thất
          3.2.1.1. Chỉ định loại I:
          - Nghẽn nhĩ – thất độ 3 hoặc nghẽn nhĩ thất độ 2 týp II có kèm theo các dấu hiệu sau:
          + Nhịp chậm có triêu chứng lâm sàng (kể cỉmtiệu chứng suy tim) do nghẽn nhĩ - thất gây nên.
          + Có kèm theo rối loạn nhịp hoặc các tình trạng bệnh lý cần phải dùng thuốc nhưng các huốc này gây nhịp chậm.
          + Có vô tâm thu ≥ 3 giây hoặc nhịp thất dưới 40 lần/phút lúc nghỉ và bệnh nhân không có triệu chứng.
          + Sau triệt phá nút nhĩ – thất bằng năng lượng sóng RF.
          + Nghẽn nhĩ – thất hoàn toàn sau phẫu thuật tim mà điều trị nội khoa không hồi phục.
          + Các bệnh lý thần kinh – cơ có nghẽn nhĩ – thất hoàn toàn cho dù bệnh nhân có triệu chứng hay không có triệu chứng.                                      
           - Nghẽn nhĩ – thất độ 2 ở bất kỳ týp nào có kèm theo nhịp chậm có triệu chứng.
          3.2.1.2. Chỉ định loại IIa:
          - Nghẽn nhĩ - thất độ 3 không triệu chứng với tần số thất khi thức khoảng 40 lần/phút, đặc biệt khi có tim to hoặc giảm chức năng thất trái.
          - Nghẽn nhĩ - thất độ 2 không triệu chứng với phức bộ QRS hẹp. Chú ý nếu phức bộ QRS rộng thì chỉ định là loại I.
          - Nghẽn nhĩ - thất độ 1 không triệu chứng tại bó His hoặc dưới bó His do thăm dò điện sinh lý phát hiện.
          - Nghẽn nhĩ - thất độ 2 hoặc độ 1 với triệu chứng tương tự như triệu chứng của hội chứng máy tạo nhịp.
          3.2.1.3. Chỉ định loại IIb:
          - Nghẽn nhĩ - thất độ 1 có khoảng PR dài trên 0,30 giây ở bệnh nhân bị rối loạn chức năng thất trái hoặc có triệu chứng suy tim ứ huyết và nếu điều trị làm giảm thời gian nhĩ - thất thì sẽ cải thiện triệu chứng do làm giảm áp lực đổ đầy nhĩ trái.
          - Các bệnh lý thần kinh – cơ có nghẽn nhĩ – thất ở bất kỳ mức độ nào cho dù bệnh nhân có triệu chứng hay không có triệu chứng.                                      
          3.2.1.4. Chỉ định loại III:
          - Nghẽn nhĩ - thất độ 1 không triệu chứng.
          - Nghẽn nhĩ - thất độ 1 không triệu chứng mà vị trí nghẽn ở trên bó His hoặc không rõ vị trí.
          - Nghẽn nhĩ - thất có thể điều trị phục hồi được như trong nhiễm độc thuốc ...                                                
3.2.2. Nghẽn hai nhánh hoặc ba nhánh mạn tính
          3.2.2.1. Chỉ định loại I:
          - Nghẽn nhĩ – thất độ 3 từng lúc.
          - Nghẽn nhĩ – thất độ 2 týp II.
          - Nghẽn nhánh bó His luân phiên.
          3.2.2.2. Chỉ định loại IIa:
          - Ngất không do nghẽn nhĩ - thất gây nên nhưng cũng không do các cơn nhanh thất gây nên.
          - Thăm dò điện sinh lý phát hiện khoảng H - V >100 ms ở bệnh nhân không có triệu chứng.
          - Thăm dò điện sinh lý phát hiện nghẽn ở dưới bó His khi kích thích.
          3.2.2.3. Chỉ định loại IIb:
          - Các bệnh lý thần kinh – cơ có nghẽn nhánh bó His ở bất kỳ mức độ nào cho dù bệnh nhân có triệu chứng hay không có triệu chứng.                                     
          3.2.2.4. Chỉ định loại III:
          - Nghẽn nhánh nhưng không có nghẽn nhĩ - thất và không triệu chứng.
          - Nghẽn nhánh và nghẽn nhĩ - thất độ 1 không triệu chứng.                
3.2.3. Nghẽn nhĩ - thất ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim
          3.2.3.1. Chỉ định loại I:
          - Nghẽn nhĩ – thất độ 2 tại vị trí bó His hoặc sợi Purkinje với nghẽn hai nhánh hoặc nghẽn nhĩ - thất độ 3 tại vị trí dưới bó His .
          - Nghẽn dưới nút nhĩ - thất độ 2 hoặc độ 3 thoáng qua kết hợp với nghẽn nhánh bó His.
          - Nghẽn nhĩ - thất độ 2 hoặc độ 3 vĩnh viễn và có triệu chứng.
          3.2.3.2. Chỉ định loại IIb:
          - Nghẽn nhĩ thất độ 2 hoặc độ 3 vĩnh viễn tại nút nhĩ thất.
          3.2.3.3. Chỉ định loại III:
          - Nghẽn nhĩ - thất thoáng qua và không có rối loạn dẫn truyền trong thất.
          - Nghẽn nhĩ - thất thoáng qua và nghẽn phân nhánh trái trước trên đơn độc.
          - Nghẽn phân nhánh trái trước trên.
          - Nghẽn nhĩ - thất độ 1 dai dẳng trên bệnh nhân có nghẽn nhánh cũ.
3.2.4. Hội chứng nút xoang bệnh lý
          3.2.4.1. Chỉ định loại I:
          - Suy chức năng nút xoang với nhịp chậm có triệu chứng, bao gồm cả ngừng xoang nhiều gây ra triệu chứng lâm sàng. Trong một số trường hợp có suy chức năng nút xoang nhịp chậm là do tác dụng phụ của một số thuốc mà bệnh nhân bắt buộc phải dùng.
          - Mất khả năng tần số tim khi gắng sức có triệu chứng trên lâm sàng.
          3.2.4.2. Chỉ định loại IIa:
          - Suy chức năng nút xoang tự phát hay do dùng thuốc với tần số tim dưới 40 lần/phút và có sự liên quan rõ rệt giữa triệu chứng và nhịp chậm.
          - Thăm dò điện sinh lý phát hiện suy chức năng nút xoang ở bệnh nhân ngất chưa giải thích được.
          3.2.4.3. Chỉ định loại IIb:
          - Bệnh nhân có tần số tim dưới 40 lần/phút và triệu chứng lâm sàng rất nhẹ.                                     
          3.2.4.4. Chỉ định loại III:
          - Suy chức năng nút xoang ở bệnh nhân không có triệu chứng, kể cả bệnh nhân có tần số tim dưới 40 lần/phút cố định do dùng thuốc kéo dài.
          - Suy chức năng nút xoang ở bệnh nhân có triệu chứng nhưng những triệu chứng này không phải do nhịp chậm gây nên.
          - Suy chức năng nút xoang ở bệnh nhân có sử dụng thuốc làm nhịp chậm và gây ra triệu chứng lâm sàng.
3.2.5. Hội chứng tăng nhạy cảm xoang cảnh và ngất do ức chế tim mạch qua trung gian thần kinh
          3.2.5.1. Chỉ định loại I:
          - Ngất tái phát do kích xoang cảnh, khi ấn nhẹ xoang cảnh đã gây ra vô tâm thu trên 3s  mà không dùng bất cứ thuốc nào ức chế nút xoang hay dẫn truyền nhĩ - thất.                                     
                   3.2.5.2. Chỉ định loại IIa:
          - Ngất tái phát mà không rõ yếu tố kích thích gây nên nhưng có đáp ứng tăng nhậy cảm xoang cảnh kiểu ức chế tim .
          - Ngất tái phát có triệu chứng do ức chế tim mạch qua trung gian thần kinh với nhịp chậm tự phát hay khi làm nghiệm pháp bàn nghiêng.
          3.2.5.3. Chỉ định loại III:
          - Đáp ứng ức chế tim khi kích thích xoang cảnh không có triệu chứng hoặc có các triệu chứng của cường phế vị như chóng mặt, choáng váng.
          - Ngất tái phát hoặc choáng váng, chóng mặt khi không có đáp ứng ức chế tim.
          - Ngất trong tình huống do cường phế vị mà bệnh nhân có thể tránh được bằng cách thay đổi thói quen.                                                
3.2.6. Các chỉ định trong những trường hợp bệnh lý hoặc đối tượng đặc biệt khác và các chỉ định mới 
          Cấy máy tạo nhịp vĩnh viễn còn được chỉ định cho những trường hợp bệnh lý đặc biệt và những đối tượng bệnh nhân riêng biệt. Những chỉ định này thường ít gặp hơn những chỉ định đã nêu ở phần trên.
3.2.6.1. Chỉ định cấy máy tạo nhịp trong dự phòng và điều trị cơn nhịp nhanh trên thất hoặc nhịp nhanh thất khi các biện pháp điều trị như dùng thuốc hoặc triệt phá các đường đãn truyền bằng năng lượng tần số radio (RF) thất bại hoặc gây tác dụng phụ.
          3.2.6.2. Chỉ định cấy máy tạo nhịp cho trẻ em và những bệnh nhân bị bệnh tim bẩm sinh.                                       
3.2.6.3. Chỉ định cấy máy tạo nhịp trong bệnh cơ tim phì đại có hẹp đường ra thất trái cho những bệnh nhân có triệu chứng lâm sàng, có nhịp chậm kèm theo hoặc điều trị nội khoa không có kết quả.
3.2.6.4. Chỉ định cấy máy tạo nhịp trong một số trường hợp ghép tim.
3.2.6.5. Chỉ định cấy máy tạo nhịp trong suy tim: Trong những năm gần đây, những hiểu biết mới về cơ chế bệnh sinh cho thấy rối loạn đồng bộ tim (Dyssynchronization) là một trong những cơ chế làm tăng nặng tình trạng suy tim ở những bệnh nhân này và tái đồng bộ tim (Resynchronization) bằng tạo nhịp hai buồng thất (Biventricular pacing) đã đem lại những kết quả khả quan cho một số bệnh nhân suy tim nặng. Chỉ định cấy máy tạo nhịp để tái đồng bộ tim ở những bệnh nhân suy tim còn chưa được thống nhất, tuy nhiên, nhiều nghiên cứu lớn đã dựa theo các tiêu chuẩn sau:
- Suy tim độ III – IV không đáp ứng với điều trị nội khoa.
- Thời gian của phúc bộ QRS ≥ 150 ms
- Đường kính thất trái cuối tâm trương (Dd) ≥ 60 mm.
- Phân số tống máu (EF%) ≤ 35%.
3.2.6.6. Chỉ định cấy máy phá rung tự động (ICD):
+ Chỉ định loại I:
          - Ngừng tim do rung thất, nhanh thất thoáng qua hoặc cấp cứu được.
          - Nhịp nhanh thất dai dẳng ở bệnh nhân có bệnh tim thực thể.
          - Thăm dò điện sinh lý học thấy có xuất hiện rung thất hoặc nhanh thất ở bệnh nhân ngất và khi điều trị bằng thuốc thì không có hiệu quả hay có tác dụng phụ.
          - Nhip nhanh thất không dai dẳng ở bệnh nhân bị bệnh động mạch vành, NMCT cũ và có chức năng thất trái giảm; khi thăm dò điện sinh lý học có thể gây ra cơn rung thất, nhanh thất dai dẳng mà điều trị các thuốc chống loạn nhịp nhóm 1 không có hiệu quả.
          - Nhịp nhanh thất dai dẳng ở bệnh nhân không có bệnh tim nhưng điều trị bằng thuốc không có hiệu quả.                                       
                   + Chỉ định loại IIa:
          - Những bệnh nhân có phân số tống máu dưới 30% và bị NMCT trong ít nhất 1 tháng, phẫu thuật cầu nối động mạch vành ít nhất 3 tháng.
          + Chỉ định loại IIb:
          - Ngừng tim do rung thất khi thăm dò điện sinh lý học và đã được điều trị dự phòng có hiệu quả bằng thuốc.
          - Có các triệu chứng do rối loạn nhịp nhanh thất nặng ở bệnh nhân chờ ghép tim.
          - Tiền sử gia đình có nguy cơ cao bị rối loạn nhịp nhanh thất đe dọa tính mạng như hội chứng QT dài, bệnh cơ tim phì đại.
          - Bệnh nhân có cơn nhịp nhanh thất không dai dẳng trên cơ sở có bệnh động mạch vành và suy chức năng thất trái và khi thăm dò điện sinh lý có gây nên cơn rung thất hoặc nhịp nhanh thất dai dẳng.
          - Ngất tái phát và có suy chức năng thất; khi thăm dò điện sinh lý có gây nên loạn nhịp thất và không tìm thấy nguyên nhân nào khác.
          - Ngất không rõ nguyên nhân hoặc tiền sử gia đình có đột tử ở bệnh nhân có hội chứng Brugada.
          - Ngất ở bệnh nhân có bệnh tim thực thể nặng mà các phương pháp chẩn đoán không tìm được nguyên nhân.
          + Chỉ định loại III:
          - Ngất không xác định được nguyên nhân ở bệnh nhân không có bệnh tim và không phải do loạn nhịp nhanh thất gây ra.
          - Các rung thất hoặc nhịp nhanh thất có thể điều trị được bằng đốt RF hoặc phẫu thuật.
          - Các rối loạn nhịp nhanh thất do các nguyên nhân có thể điều chỉnh được như rối loạn điện giải, ngộ độc thuốc  ...
- Bệnh nhân có các rối loạn tâm thần kinh làm ảnh hưởng đến đến việc cấy máy và theo dõi máy.
- Bệnh lý giai đoạn cuối.
- Bệnh nhân có bệnh động mạch vành, suy chức năng thất trái và có khoảng QT dài nhưng không có nhịp nhanh thất và sẽ được làm phẫu thuật cầu nối chủ vành.
3.3. Các biến chứng của cấy máy tạo nhịp tim vĩnh viễn
Biến chứng của cấy máy tạo nhịp vĩnh viễn bao gồm hai loại chính, đó là biến chứng liên quan đến thủ thuật cấy máy và biến chứng liên quan đến hoạt động của máy tạo nhịp. Nhiều biến chứng có liên quan trực tiếp đến kinh nghiệm của thầy thuốc. Một nghiên cứu đã cho thấy biến chứng của cấy máy tạo nhịp là khá cao khi thầy thuốc chỉ cấy dưới 12 máy mỗi năm.
3.3.1. Các biến chứng liên quan đến thủ thuật cấy máy
          - Tình trạng chảy máu: thường xảy ra khi chọc tĩnh mạch dưới đòn ở bệnh nhân có tăng áp lực động mạch phổi, hở van 3 lá nặng. Chảy máu có thể gây tràn máu màng phổi, đay là một biến chứng khá nặng, có thể gây tử vong, nên tránh chọc tĩnh mạch dưới đò cả 2 bên trong cùng một lần cấy máy. Chảy máu có thể gây máu tụ ở khoang chứa máy, đặc biệt ở bệnh nhân có dùng chống đông. Máu tụ ở khoang chứa máy có thể gây nhiễm trùng khoang chứa máy hoặc ảnh hưởng tới hoạt động của máy nhất là khi kích thích đơn cực. Khi có máu tụ ở khoang chứa máy nhiều có hể phải chọc hút bớt máu. Để tránh máu tụ ở khoang chứa máy, sau phẫu thuật cấy máy cần băng ép tại chỗ thật tốt.
          - Tràn khí màng phổi: thường xảy ra khi thủ thuật viên chọc tĩnh mạch dưới đòn ít kinh nghiệm. Tràn khí màng phổi là một biến chứng tương đối nặng, cần phải sử trí ngay, thông thường phải chọc hút hoặc dẫn lưu khí màng phổi. Diễn biến của bệnh nhân tuỳ thuộc vào mức độ tràn khí. Để hạn chế biến chứng này người ta có thể sử dụng tĩnh mạch đầu để làm đường vào khi cấy máy.
          - Tắc động mạch phổi do khí: xảy ra do lọt khí vào tĩnh mạch dưới đòn khi làm kỹ thuật Seldinger. Đây cũng là một biến chứng nặng nhưng ít gặp.
          - Tắc tĩnh mạch nách và tĩnh mạch dưới đòn do huyết khối: thường xuất hiện muộn, ít gây biến chứng nặng. Có thể phải điều trị bằng thuốc chống đông.
          - Tình trạng nhiễm trùng: có thể xảy ra tình trạng nhiễm trùng tại chỗ vết mổ, nhiễm trùng khoang chứa máy hoặc nhiễm trùng huyết và viêm nội tâm mạc do nhiễm trùng điện cực. Nguyên nhân là do viêc đảm bảo vô trùng khi cấy máy không được tốt, bệnh nhân bị suy giảm sức đề kháng, túi chứa máy chật gây hoại tử da, bệnh nhân có nhiễm trùng toàn thân .... Trong trường hợp bệnh nhân bị nhiễm trùng khoang chứa máy hoặc nhiễm trùng dây điện cực thì cần phải điều trị bằng kháng sinh, phẫu thuật cấy máy sang bên ngực đối diện hoặc mổ lấy máy tạo nhịp và điện cực sau đó cấy máy và dây điện cực mới ở bên ngực đối diện sau khi điều trị hết tình trạng nhiễm trùng.                                           
3.3.2. Các biến chứng liên quan máy tạo nhịp
- Tuột dây điện cực: thường được phát hiện sớm khi trên điện tim đồ có các gai kích thích nhưng không có khử cực thất hay nhĩ. Trong trường hợp này người ta thường phải mổ lại để cố định lại dây điện cực.
- Kích thích cơ hoành: có thể do điện cực làm thủng thành thất phải, do biên độ kích thích cao ... Cần phải giảm biên độ kích thích, nếu không được thì phải mổ lại để chỉnh vị trí dây điện cực.
- Kích thích cơ ngực: thường điều chỉnh được khi giảm biên độ kích thích.
- Gắn nhầm dây điện cực nhĩ và thất hoặc gắn nhầm điện cực vào thất trái hoặc xoang vành: thường thấy những bất thường trên điện tim không phù hợp với phương thức tạo nhịp hoặc ngưỡng kích thích cao hơn bình thường. Trong trường hợp này phải mổ lại để đặt lại điện cực.
- Tình trạng nứt, vỡ điện cực: được phát hiện trên lâm sàng, điện tim, Xquang tim – phổi và đặc biệt là khi kiểm tra máy tạo nhịp bằng máy lập chương trình.
- Rối loạn nhịp tim sau cấy máy tạo nhịp.
- Hội chứng máy tạo nhịp.
- Rối loạn nhịp nhanh qua rung gian máy tạo nhịp.

- Các rối loạn nhận cảm và kích thích của máy tạo nhịp.    

0 nhận xét Blogger 0 Facebook

Đăng nhận xét

 
Cùng Học Y © 2013. All Rights Reserved. Powered by Blogger
Top